Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Về y tế cộng đồng

Bộ môn Xã hội, Nhân văn và Văn hóa Y tế thuộc Khoa các Khoa học xã hội, Hành vi và Giáo dục Sức khỏe. Bộ môn Xã hội, Nhân văn và Văn hóa Y tế có nhiệm vụ giảng dạy các môn học như Nhân học y tế & Xã hội học Sức khoẻ, Tâm lý y học và y đức cho các đối tượng cử nhân hệ chính quy và hệ vừa làm vừa học. Các môn học được giảng dạy nhằm trang bị cho học viên tiếp cận lý thuyết của khoa học xã hội và ứng dụng các tiếp cận lý thuyết để phân tích được các yếu tố văn hóa, xã hội, tâm lý ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật một cách khái quát hơn. Bên cạnh đó, Bộ môn cũng phối hợp, cộng tác với các đối tác trong và ngoài trường trong các hoạt động nâng cao năng lực, tư vấn, nghiên cứu các chủ đề chuyên ngành.
Danh mục các môn học do bộ môn phụ trách
1. Nhân học y tế & Xã hội học sức khỏe (Giảng dạy cho Cử nhân YTCC hệ chính quy và vừa làm vừa học)
Nhân học được định nghĩa là "một ngành nghiên cứu tổng hợp về con người, cụ thể là nguồn gốc, sự phát triển, các tổ chức chính trị xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật và các tạo vật của con người”. Nhân học y tế là một phân ngành nhân học ứng dụng tìm cách sử dụng lí thuyết của nhân học để giải thích và giải quyết các vấn đề về y tế và sức khỏe.
Xã hội học được định nghĩa là ngành khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội và hành vi xã hội của con người. Xã hội học sức khỏe là một phân ngành của Xã hội học tìm cách giải thích các nguyên nhân xã hội và hệ quả xã hội của các vấn đề y tế và sức khỏe.
Bắt đầu từ năm học 2010-2011, môn Xã hội học sức khỏe và môn Nhân học y tế ứng dụng được ghép vào thành môn Nhân học y tế & Xã hội học sức khỏe để giảng dạy cho cử nhân YTCC hệ chính quy và vừa làm vừa học. Trong khóa học này, sinh viên được làm quen với các khái niệm của xã hội học và nhân học để giải thích các vấn đề sức khỏe như: cấu trúc xã hội và các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe, văn hóa, hòa nhập xã hội...
2. Tâm lý y học và y đức (Giảng dạy cho Cử nhân YTCC hệ chính quy, vừa làm vừa học)
Môn Tâm lý y học và y đức được ghép lại từ 2 môn Tâm lý học sức khỏeĐạo đức trong thực hành YTCC theo khung chương trình của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Để phù hợp với chương trình đào tạo của trường Đại học YTCC, môn này được tách thành 2 cấu phần: Tâm lý y học và y đức 1 - tập trung chủ yếu vào phần Tâm lý học sức khỏe (giảng vào học kỳ 2) và Tâm lý y học và y đức 2 - tập trung chủ yếu vào phần Đạo đức trong thực hành YTCC (giảng vào học kỳ 7 cho cử nhân chính quy và học kỳ 8 cho cử nhân vừa làm vừa học).
Tâm lý học Sức khỏe (TLHSK) là một chuyên ngành tập trung vào ứng dụng và phát triển các lý thuyết, khái niệm và phương pháp tâm lý để nghiên cứu các mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý và tình trạng sức khỏe con người. TLHSK được đưa vào chương trình giảng dạy cho cử nhân YTCC với mục đích giúp sinh viên YTCC có khả năng áp dụng cách tiếp cận của TLHSK trong xác định và phân tích những yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như khả năng áp dụng kĩ năng tâm lý giao tiếp trong tiếp cận cộng đồng để xác định và can thiệp vấn đề sức khỏe ưu tiên.
Đạo đức trong thực hành YTCC cung cấp cho học viên cách tiếp cận khoa học trong thảo luận các vấn đề đạo đức và giá trị trong y tế công cộng. Môn học được thiết kế nhằm giúp học viên xác định được các vấn đề/chủ đề cần thảo luận - những vấn đề/chủ đề mà những người hoạt động trong lĩnh vực y tế công cộng luôn gặp phải và buộc họ phải bàn luận sâu về những mâu thuẫn về giá trị và đạo đức phát sinh trong khi áp dụng những kiến thức y tế công cộng vào thực tế.

 

Đề án 1816 được Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ngày 26/5/2008. Sau hơn 5 năm thực hiện, Đề án đã đi vào thực tế cuộc sống, thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.



Từ Đề án đi vào thực tiễn 1
Đề án 1816, Đề án Bệnh viện vệ tinh đã góp phần đắc lực cho việc giảm tải ở các bệnh viện tuyến trên. Ảnh: Chí Cường

 
Những con số ấn tượng


Thạc sĩ Cao Hưng Thái - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, tính đến nay có 72 bệnh viện cử cán bộ đi luân phiên, gồm: 35 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, 2 bệnh viện thực hành thuộc cơ sở đào tạo và 35 bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội, Sở Y tế TP Hồ Chí Minh, Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng, Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, với 15.000 lượt cán bộ đi luân phiên chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ tuyến dưới. Đã tổ chức 2.493 lớp tập huấn nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho 66.403 lượt cán bộ tuyến tỉnh. Về công tác chuyển giao kỹ thuật, đã có 5.104 kỹ thuật thuộc 26 chuyên ngành đã được chuyển giao cho tuyến tỉnh. Cán bộ luân phiên trực tiếp thực hiện 17.156 ca phẫu thuật, thủ thuật.

Theo báo cáo của các đơn vị, hầu hết các kỹ thuật sau chuyển giao đã được tuyến dưới thực hiện tốt. Các đơn vị duy trì thực hiện tốt chuyển giao kỹ thuật: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện TW Huế, Bệnh viện Nhi Đồng 1, Bệnh viện Nhi Đồng 2, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Xanh Pôn... 940.075 lượt người bệnh đã được khám, chữa nhờ Đề án đầy nhân văn này.
Theo lãnh đạo Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), việc phối hợp Đề án 1816 với phong trào thi đua, khích lệ các đơn vị, đảng viên và cán bộ y tế tham gia là rất cần thiết trong điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn như hiện nay. Kết quả của Đề án là sự thể hiện truyền thống văn hóa và bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam- đó là tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau, tình cảm đồng nghiệp hỗ trợ giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn.

Cũng từ Đề án mà việc hỗ trợ chuyên môn trong nội bộ của các tỉnh được nâng cao. Đã có 262 bệnh viện tỉnh cử 1.905 lượt cán bộ luân phiên hỗ trợ 360 bệnh viện huyện, tổ chức 607 lớp tập huấn cho 12.066 lượt học viên, chuyển giao 1.702 kỹ thuật, khám, chữa bệnh cho 192.906 lượt người bệnh, trực tiếp phẫu thuật 5.161 ca. Đã có 305 bệnh viện huyện cử 3.234 lượt cán bộ xuống hỗ trợ 1.815 trạm y tế xã, khám chữa bệnh cho 3.539.314 lượt người bệnh. 

Việc đào tạo, chuyển giao kỹ thuật đã giúp cho năng lực chuyên môn của bệnh viện tuyến dưới được nâng cao hơn. Chất lượng khám chữa bệnh tăng lên. Người dân tin tưởng đến khám chữa bệnh ngay địa phương, từ đó góp phần giảm tải từ xa cho bệnh viện tuyến trên.
 
Bài học kinh nghiệm

Từ những kết quả đạt được cho thấy, sự thống nhất chủ trương và vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Chính quyền và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho Đề án 1816 được thực hiện đồng bộ cả về bề rộng lẫn chiều sâu và đạt được hiệu quả cao.

Công tác tổ chức thực hiện Đề án khoa học, quyết liệt, đồng bộ từ việc thành lập Ban chỉ đạo các cấp đến việc lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát thực hiện, tổng kết rút kinh nghiệm, tranh thủ mọi nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, từ nguồn tự có của các đơn vị và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước góp phần làm nên thành công của Đề án. Các địa phương đã phát huy tính chủ động, năng động trong công việc. Đã xuất hiện nhiều mô hình hay, cách làm mới, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị góp phần nâng cao hiệu quả của Đề án.
 
Hoàng Phương